Sat Dec 25, 2010 8:41 pm
Các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kiểm toán
được hình thành do mối liên hệ giữa nghề nghiệp và môi trường xã hội.
Các quy định đạo đức nghề nghiệp thường được tìm thấy trong chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp và các quy định của luật pháp. Dù cả hai cùng đề cập
đến vần đề đạo đức nghề nghiệp nhưng cách thức ban hành và nội dung có
những điểm khác nhau.
Tại Hoa Kỳ, các chuẩn mực kiểm toán và
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do tổ chức nghề nghiệp kiểm toán (AICPA)
ban hành và kiểm soát chất lượng hoàn toàn do tổ chức nghề nghiệp đảm
nhận. Mô hình tự kiểm soát xuất phát từ nguyên nhân là hoạt động kiểm
toán độc lập Hoa Kỳ đã phát triển mạnh và rất sớm do nền kinh tế được
tài trợ bởi thị trường chứng khoán. Sự phát triển mạnh của hoạt động
kiểm toán từ khi chưa có các quy định của Nhà nước đã đưa đến sự hình
thành và phát triển mạnh mẽ của tổ chức nghề nghiệp.
Cho đến
những năm 2000, một số vụ bê bối về tài chính và kế toán nổ ra đưa đến
sự sụp đổ các công ty hàng đầu trên thế giới và gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lợi ích của công chúng, trong đó có lỗi của công ty kiểm toán.
Nhà nước Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào hoạt động kiểm toán thông qua
việc ban hành luật Sarbanes -Oxley. Luật Sarbanes -Oxley 2002 được Quốc
hội Hoa Kỳ phê chuẩn ngày 30/7/2002 nhằm nâng cao chất lượng và tính
minh bạch của báo cáo tài chính, tăng cường trách nhiệm của Hội đồng
quản trị, Ban Giám đốc và kiểm toán viên. Ngoài một số điều khoản liên
quan đến tính độc lập của kiểm toán viên, Luật Sarbanes -Oxley còn cho
phép Uỷ ban giám sát kế toán và kiểm toán các công ty niêm yết (PCAOB)
thuộc SEC sẽ quản lý việc đăng ký các công ty kiểm toán được phép kiểm
toán cho các công ty niêm yết, thiết lập hay chấp nhận bằng luật lệ đối
với các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng, đạo đức, tính độc
lập và các chuẩn mực khác liên quan đến việc soạn thảo báo cáo kiểm toán
và thực hiện việc giám sát đối với các công ty kiểm toán.
Các
quy định của Luật Sarbane -Oxley không hề mâu thuẫn với chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, nội dung của luật Sarbanes -Oxley có một số
khác biệt chủ yếu so với quy định trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,
như là:
Các quy định trong Luật Sarbanes -Oxley chỉ tập trung vào
tính độc lập, còn những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp khác trong chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp như trung thực khách quan, tư cách nghề nghiệp…
không được luật này đề cập.
Các quy định trong Luật Sarbanes
-Oxley rất chặt chẽ, cụ thể và được ban hành dưới dạng những điều cấm và
những điều mà kiểm toán viên phải tuân thủ để thể hiện tính độc lập của
mình. Nếu kiểm toán viên làm trái những quy định này có nghĩa là họ đã
vi phạm pháp luật và phải chịu xử lý về mặt pháp luật. Trong khi các quy
định của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp thường ban hành dưới dạng nguy
cơ và biện pháp bảo vệ.
Luật Sarbanes - Oxley và chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp là hai cách tiếp cận khác nhau đối với lĩnh vực đạo đức
nghề nghiệp. Điều đó xuất phát từ nguyên nhân đối với cơ quan quản lý xã
hội, kiểm toán không chỉ là phương tiện để đảm bảo độ tin cậy của thông
tin mà còn là công cụ giám sát thông tin của xã hội. Còn đối với nghề
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp là những hướng dẫn giúp các thành viên ứng
xử một cách trung thực nhằm đạt được sự tin cậy của xã hội. Từ các vấn
đề trên cho thấy, khuynh hướng phổ biến hiện nay là luật pháp phải can
thiệp vào một số phương diện của nghề nghiệp kiểm toán nhằm tạo sự ổn
định xã hội, đặc biệt là ổn định thị trường chứng khoán. Trong khi đó,
chuẩn mực đạo đức nhằm xây dựng hình ảnh lý tưởng của nghề nghiệp để
nâng cao sự tín nhiệm của công chúng đối với nghề nghiệp. Việc tồn tại
song song hai quy định trên là điều tất yếu khách quan.
Quy định về đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam
Tại
Việt Nam, các quy định về đạo đức nghề nghiệp hiện hành được thể hiện
chủ yếu trong Nghị định 105/2004/NĐ- CP ban hành ngày 30/3/2004 của
Chính phủ về Kiểm toán độc lập và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp ban hành
ngày 01/12/2005 theo Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC, áp dụng cho tất cả
những người làm kế toán và người làm kiểm toán. Việc tồn tại song song
hai loại quy định nói trên là phù hợp với thông lệ chung trên thế giới.
Tuy nhiên, việc áp dụng chúng vào thực tế hiện nay vẫn còn một số bất
cập.
Trước hết, các quy định về đạo đức nghề nghiệp mới chỉ dừng
lại ở mức độ chuẩn mực, chưa có các hướng dẫn cụ thể. Bản thân một số
nội dung trong chuẩn mực cũng còn nhiều điểm rất trừu tượng, do vậy, hạn
chế về khả năng triển khai chúng trong thực tế. Các quốc gia trên thế
giới như Hoa Kỳ, để có thể áp dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vào
thực tế, đều có các hướng dẫn chi tiết (các giải thích và hướng dẫn cụ
thể về đạo đức). Chính vì vậy, việc đưa ra các hướng dẫn đối với Việt
Nam rất quan trọng vì sẽ giúp các công ty kiểm toán có thuận lợi hơn
trong việc xây dựng chính sách đạo đức nghề nghiệp cho mình.
Trong
khi chờ đợi việc nghiên cứu để có thể ban hành đầy đủ các hướng dẫn,
trước mắt để chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có thể áp dụng sớm, cần ban
hành ngay những hướng dẫn chi tiết về một số nội dung quan trọng.
Một là, phí dịch vụ:
Đoạn
106 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đã nêu: “Việc quá phụ thuộc vào
phí dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo sẽ tạo nguy cơ do tư
lợi làm ảnh hưởng tính độc lập của kiểm toán viên”. Và công ty không nên
nhận hợp đồng kiểm toán nếu mức phí thấp hơn đáng kể so với công ty
kiểm toán tiền nhiệm (hay công ty kiểm toán khác). Tuy nhiên, chuẩn mực
không nêu rõ như thế nào là “quá phụ thuộc” hay “ đáng kể “nên rất khó
áp dụng vào thực tế. Theo chúng tôi, để xem xét thể nào là quá phụ
thuộc, có thể dựa vào hướng dẫn của một số Hiệp hội nghề nghiệp của các
quốc gia trên thế giới. Thông thường, phí của hợp đồng kiểm toán cho một
khách hàng không nên vượt quá 15% (đối với khách hàng là công ty không
niêm yết) hay vượt quá 10% (đối với khách hàng là công ty niêm yết) tổng
doanh thu của công ty kiểm toán (theo hướng dẫn của hội nghề nghiệp
kiểm toán Anh quốc ACCA). Trường hợp phí hợp đồng thu được từ một khách
hàng cao hơn tỷ lệ nêu trên, công ty kiểm toán nên có các chính sách,
thủ tục thích hợp để bảo vệ và giám sát việc thực hiện hợp đồng kiểm
toán, cũng như kiểm soát chất lượng của hợp đồng kiểm toán. Nếu không,
phải từ chối thực hiện hợp đồng kiểm toán cho khách hàng này.
Về
mức phí thấp hơn đáng kể, do rất khó xác định bằng số tuyệt đối hay số
tương đối, vì vậy, các hướng dẫn thường yêu cầu công ty kiểm toán phải
cân nhắc các vấn đề:
- Thời gian thực hiện hợp đồng phải thích hợp, tức không được giảm thời gian thực hiện kiểm toán;
- Trình độ chuyên môn và năng lực kiểm toán viên tham gia vào hợp đồng kiểm toán phải phù hợp;
- Tuân thủ đầy đủ chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm soát chất lượng trong quá trình kiểm toán.
Hai là, xem xét khả năng phát sinh xung đột lợi ích
Xung
đột lợi ích ảnh hưởng đến việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp. Tuy nhiên vấn đề này không được trình bày đầy đủ trong chuẩn mực
hiện hành. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của quốc tế năm 2006 đã đưa
thêm nội dung này. Trong thực tế, đây là một vấn đề cần quan tâm trong
việc chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Vì vậy, cần bổ sung nội dung này vào
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, cần đưa ra các hướng dẫn chi
tiết hơn về các loại xung đột lợi ích.
Phương pháp giải quyết xung đột do đối lập lợi ích:
Khi
nhận đề nghị cung cấp dịch vụ từ khách hàng mới, mà lợi ích của khách
hàng này đối lập với khách hàng hiện tại, công ty kiểm toán không nên
chấp nhận đề nghị này, ngoại trừ trường hợp sau:
Khách hàng mới
và khách hàng hiện tại ký văn bản cam kết chấp nhận cho công ty kiểm
toán cung cấp dịch vụ sau khi họ đã được công ty kiểm toán cung cấp
thông tin nêu trên.
Công ty sử dụng hai nhóm kiểm toán riêng
biệt, có thiết lập thủ tục ngăn ngừa việc tiếp cận thông tin, cũng như
đã hướng dẫn đầy đủ cho nhóm kiểm toán về yêu cầu bảo mật thông tin để
đảm bảo tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Nếu khách hàng từ chối ký văn bản cam kết, công ty kiểm toán không được cung cấp dịch vụ cho một trong hai khách hàng này.
Trường
hợp công ty kiểm toán chỉ phát hiện xung đột lợi ích khi tiến hành kiểm
toán, công ty nên chọn phương pháp xử lý như là: Rút lui khỏi hợp đồng
dịch vụ đang cung cấp cho cả hai bên nếu nhận thấy không có biện pháp
nào có thể áp dụng để giảm thiểu nguy cơ có xung đột do đối lập lợi ích,
hoặc xin sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng và thực hiện các biện
pháp phân chia nhân lực nhằm tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp.
Phương pháp giải quyết xung đột lợi ích do cạnh tranh:
Khi
chấp nhận hợp đồng kiểm toán cho khách hàng mới mà có thể tạo xung đột
lợi ích do cạnh tranh với khách hàng hiện hữu, kiểm toán viên và công ty
kiểm toán cần đặc biệt chú ý đến việc bảo mật thông tin của khách hàng.
Ngoài
ra, công ty kiểm toán cần lưu ý trường hợp xung đột lợi ích do cạnh
tranh có thể trở thành xung đột do đối lập lợi ích. Ví dụ, khách hàng X
và Y là hai đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành kinh doanh. Cả hai công
ty dự định sẽ tham gia đấu thầu vào một hợp đồng cung cấp dịch vụ. Đây
là cuộc đấu thầu ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và công ty nào
thắng thầu sẽ trở thành nhà cung cấp, đồng thời sẽ chi phối thị trường.
Khi đó, công ty kiểm toán phải cân nhắc các nhân tố sau khi đưa ra quyết
định chấp nhận hợp đồng kiểm toán:
- ảnh hưởng của việc chấp nhận hợp đồng của khách hàng thứ hai đối với khách hàng thứ nhất.
- ảnh hưởng của khách hàng thứ nhất đối với khách hàng thứ hai.
Thông thường, công ty vẫn có thể cung cấp dịch vụ khi các điều kiện sau được bảo đảm:
Công
ty sẽ sắp xếp được nhân sự một cách hợp lý để các nhóm tham gia kiểm
toán sẽ tách biệt với nhau nhằm bảo mật tuyệt đối thông tin của khách
hàng.
Thông báo cho khách hàng và cần có sự đồng ý bằng văn bản của khách hàng.
Phương pháp giải quyết xung đột lợi ích kinh doanh:
Xung
đột này nảy sinh khi công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ cho một khách
hàng mà lợi ích của công ty kiểm toán gắn liền với lợi ích của khách
hàng đó.
Cần chú ý trường hợp xung đột lợi ích kinh doanh có thể
đưa đến xung đột đối lập lợi ích hay xung đột lợi ích cạnh tranh. Ví dụ,
công ty kiểm toán có quan hệ kinh doanh với khách hàng C. Công ty nhận
được đề nghị cung cấp dịch vụ cho khách hàng D về việc tư vấn dự án phát
triển cho một sản phẩm /dịch vụ thuộc ngành nghề của C, hay của các đối
thủ cạnh tranh của công ty C. Điều này có thể sẽ dẫn đến việc công ty
cung cấp dịch vụ kiểm toán lại tư vấn cho công ty D theo hướng có lợi
cho công ty C.
Khi phát sinh xung đột lợi ích nêu trên, công ty
kiểm toán cần thông báo cho khách hàng tiềm năng (khách hàng D, ở ví dụ
trên) đầy đủ thông tin về mối quan hệ này. Nếu khách hàng vẫn đồng ý,
công ty có thể chấp nhận hợp đồng kiểm toán và khi đó, cần có các biện
pháp bảo vệ thích hợp để giảm thiểu rủi ro xuống mức có thể chấp nhận
được.
Ba là, Vay và bảo lãnh
Đoạn 147, 148 và 149 chuẩn
mực đạo đức hiện hành quy định: “KiỂm toán viên và công ty kiỂm toán có
thỂ đi vay và cho vay đỐi vỚi khách hàng nẾu khoẢn đi vay và cho vay
không đáng kể đối với cả công ty kiểm toán hoặc kiểm toán viên và khách
hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo”. Thế nhưng chuẩn mực lại không hướng dẫn
như thế nào là “không đáng kể” nên rất khó áp dụng, vì vậy rất cần có
hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề này.
Mức “không đáng kể” có thể
xác định bằng số tuyệt đối hay số tương đối. Đối với kiểm toán viên, nên
sử dụng số tuyệt đối, còn đối với công ty kiểm toán nên sử dụng số
tương đối (chẳng hạn một tỷ lệ % so với doanh thu, tài sản …). Chẳng hạn
theo hướng dẫn một số công ty kiểm toán: kiểm toán viên chỉ có thể thực
hiện kiểm toán cho khách hàng là các tổ chức tín dụng nếu những khoản
thấu chi hay khoản vay từ các công ty (không phải là ngân hàng, tổ chức
tài chính) có số dư không vượt quá 5.000 USD. Như vậy, tuỳ theo tình
hình thực tế, Hội nghề nghiệp nên chọn một số thích hợp và đưa ra hướng
dẫn cụ thể về vấn đề này.
Bốn là, Cần đưa ra yêu cầu kiểm toán viên phải ký văn bản cam kết về tính độc lập
Một
số quốc gia, chẳng hạn như Pháp, yêu cầu trước mỗi cuộc kiểm toán, kiểm
toán viên phải ký văn bản này. Việc yêu cầu kiểm toán viên ký cam kết
nhằm nhắc nhở họ tầm quan trọng của việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và
là cơ sở để sau này có thể xem xét vi phạm của kiểm toán viên.
Giữa
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các quy định trong NĐ105 có một số
điểm khác biệt. Khi phát sinh khác biệt, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán hiện nay chưa có cơ sở để giải quyết.
Thực vậy, giữa chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp và Nghị định 105 còn tồn tại một số nội dung
khác biệt. Chẳng hạn theo đoạn 190 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,
nếu khách hàng kiểm toán không phải là công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán, công ty kiểm toán có thể cung cấp các dịch vụ kế toán và
ghi sổ kế toán theo thủ tục thoả thuận trước với điều kiện các nguy cơ
tự kiểm tra có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được.
Còn
nếu khách hàng kiểm toán là công ty được niêm yết trên thị trường chứng
khoán, thì công ty kiểm toán không được cung cấp dịch vụ kế toán, ghi
sổ kế toán, lập báo cáo tài chính..
Trong khi đó ở Điều 27, Nghị
định 105/2004/NĐ- CP ban hành ngày 30/3/2004 của Chính phủ quy định là:
Doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện kiểm toán trong trường hợp
“đang cung cấp dịch vụ ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính, dịch vụ
kiểm toán nội bộ, định giá tài sản, tư vấn quản lý, tư vấn tài chính
hoặc đã thực hiện các dịch vụ trên trong năm trước cho khách hàng” không
phân biệt là khách hàng có niêm yết hay không.
Như vậy, trong
trường hợp này, nếu tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, công ty vẫn
có thể chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Nhưng nếu chấp nhận hợp đồng kiểm
toán, công ty sẽ vi phạm Nghị định 105/2004/NĐ-CP .
Việc khác
biệt này không chỉ phát sinh tại Việt Nam mà đã từng phát sinh ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, một số các quy định trong Luật
Sarbanes -Oxley có sự khác biệt so với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Để
giải quyết khác biệt này, sau khi Luật Sarbanes -Oxley được ban hành,
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Hoa Kỳ đã bổ sung một số quy định cho phù
hợp quy định trong luật Sarbanes -Oxley.
Nói cách khác, giữa
chuẩn mực đạo đức và Nghị định 105/2004/NĐ-CP có những nội dung khác
biệt và về nguyên tắc, chuẩn mực được ban hành bằng Quyết định của Bộ
Tài chính, tức có giá trị pháp lý thấp hơn Nghị định 105, nên khi có
khác biệt phải tuân theo Nghị định 105. Thế nhưng, nếu tuân thủ Nghị
định 105/2004/NĐ-CP, trong một số trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu của
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Phương pháp giải quyết tốt nhất là nên
học tập kinh nghiệm của Hoa Kỳ, tức bổ sung nội dung sau đây vào chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp của Việt Nam quy định như sau:
Khi áp
dụng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có thể nảy sinh một số khác
biệt. Lúc này, nếu quy định của chuẩn mực đạo đức không chặt chẽ bằng
quy định pháp lý, cần tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. Ngược
lại, khi chuẩn mực đạo đức chặt chẽ hơn các quy định pháp lý, thì phải
tuân thủ các quy định của chuẩn mực.
Tóm lại, việc hoàn thiện các
quy định đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên ở Việt Nam nhằm giúp
các công ty kiểm toán và người hành nghề dễ dàng áp dụng vào thực tế.
Đây là một biện pháp góp phần phát triển các dịch vụ kiểm toán và những
dịch vụ đảm bảo khác trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế./. Tapchiketoan.com
được hình thành do mối liên hệ giữa nghề nghiệp và môi trường xã hội.
Các quy định đạo đức nghề nghiệp thường được tìm thấy trong chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp và các quy định của luật pháp. Dù cả hai cùng đề cập
đến vần đề đạo đức nghề nghiệp nhưng cách thức ban hành và nội dung có
những điểm khác nhau.
Tại Hoa Kỳ, các chuẩn mực kiểm toán và
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do tổ chức nghề nghiệp kiểm toán (AICPA)
ban hành và kiểm soát chất lượng hoàn toàn do tổ chức nghề nghiệp đảm
nhận. Mô hình tự kiểm soát xuất phát từ nguyên nhân là hoạt động kiểm
toán độc lập Hoa Kỳ đã phát triển mạnh và rất sớm do nền kinh tế được
tài trợ bởi thị trường chứng khoán. Sự phát triển mạnh của hoạt động
kiểm toán từ khi chưa có các quy định của Nhà nước đã đưa đến sự hình
thành và phát triển mạnh mẽ của tổ chức nghề nghiệp.
Cho đến
những năm 2000, một số vụ bê bối về tài chính và kế toán nổ ra đưa đến
sự sụp đổ các công ty hàng đầu trên thế giới và gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến lợi ích của công chúng, trong đó có lỗi của công ty kiểm toán.
Nhà nước Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào hoạt động kiểm toán thông qua
việc ban hành luật Sarbanes -Oxley. Luật Sarbanes -Oxley 2002 được Quốc
hội Hoa Kỳ phê chuẩn ngày 30/7/2002 nhằm nâng cao chất lượng và tính
minh bạch của báo cáo tài chính, tăng cường trách nhiệm của Hội đồng
quản trị, Ban Giám đốc và kiểm toán viên. Ngoài một số điều khoản liên
quan đến tính độc lập của kiểm toán viên, Luật Sarbanes -Oxley còn cho
phép Uỷ ban giám sát kế toán và kiểm toán các công ty niêm yết (PCAOB)
thuộc SEC sẽ quản lý việc đăng ký các công ty kiểm toán được phép kiểm
toán cho các công ty niêm yết, thiết lập hay chấp nhận bằng luật lệ đối
với các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng, đạo đức, tính độc
lập và các chuẩn mực khác liên quan đến việc soạn thảo báo cáo kiểm toán
và thực hiện việc giám sát đối với các công ty kiểm toán.
Các
quy định của Luật Sarbane -Oxley không hề mâu thuẫn với chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, nội dung của luật Sarbanes -Oxley có một số
khác biệt chủ yếu so với quy định trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,
như là:
Các quy định trong Luật Sarbanes -Oxley chỉ tập trung vào
tính độc lập, còn những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp khác trong chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp như trung thực khách quan, tư cách nghề nghiệp…
không được luật này đề cập.
Các quy định trong Luật Sarbanes
-Oxley rất chặt chẽ, cụ thể và được ban hành dưới dạng những điều cấm và
những điều mà kiểm toán viên phải tuân thủ để thể hiện tính độc lập của
mình. Nếu kiểm toán viên làm trái những quy định này có nghĩa là họ đã
vi phạm pháp luật và phải chịu xử lý về mặt pháp luật. Trong khi các quy
định của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp thường ban hành dưới dạng nguy
cơ và biện pháp bảo vệ.
Luật Sarbanes - Oxley và chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp là hai cách tiếp cận khác nhau đối với lĩnh vực đạo đức
nghề nghiệp. Điều đó xuất phát từ nguyên nhân đối với cơ quan quản lý xã
hội, kiểm toán không chỉ là phương tiện để đảm bảo độ tin cậy của thông
tin mà còn là công cụ giám sát thông tin của xã hội. Còn đối với nghề
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp là những hướng dẫn giúp các thành viên ứng
xử một cách trung thực nhằm đạt được sự tin cậy của xã hội. Từ các vấn
đề trên cho thấy, khuynh hướng phổ biến hiện nay là luật pháp phải can
thiệp vào một số phương diện của nghề nghiệp kiểm toán nhằm tạo sự ổn
định xã hội, đặc biệt là ổn định thị trường chứng khoán. Trong khi đó,
chuẩn mực đạo đức nhằm xây dựng hình ảnh lý tưởng của nghề nghiệp để
nâng cao sự tín nhiệm của công chúng đối với nghề nghiệp. Việc tồn tại
song song hai quy định trên là điều tất yếu khách quan.
Quy định về đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam
Tại
Việt Nam, các quy định về đạo đức nghề nghiệp hiện hành được thể hiện
chủ yếu trong Nghị định 105/2004/NĐ- CP ban hành ngày 30/3/2004 của
Chính phủ về Kiểm toán độc lập và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp ban hành
ngày 01/12/2005 theo Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC, áp dụng cho tất cả
những người làm kế toán và người làm kiểm toán. Việc tồn tại song song
hai loại quy định nói trên là phù hợp với thông lệ chung trên thế giới.
Tuy nhiên, việc áp dụng chúng vào thực tế hiện nay vẫn còn một số bất
cập.
Trước hết, các quy định về đạo đức nghề nghiệp mới chỉ dừng
lại ở mức độ chuẩn mực, chưa có các hướng dẫn cụ thể. Bản thân một số
nội dung trong chuẩn mực cũng còn nhiều điểm rất trừu tượng, do vậy, hạn
chế về khả năng triển khai chúng trong thực tế. Các quốc gia trên thế
giới như Hoa Kỳ, để có thể áp dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vào
thực tế, đều có các hướng dẫn chi tiết (các giải thích và hướng dẫn cụ
thể về đạo đức). Chính vì vậy, việc đưa ra các hướng dẫn đối với Việt
Nam rất quan trọng vì sẽ giúp các công ty kiểm toán có thuận lợi hơn
trong việc xây dựng chính sách đạo đức nghề nghiệp cho mình.
Trong
khi chờ đợi việc nghiên cứu để có thể ban hành đầy đủ các hướng dẫn,
trước mắt để chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có thể áp dụng sớm, cần ban
hành ngay những hướng dẫn chi tiết về một số nội dung quan trọng.
Một là, phí dịch vụ:
Đoạn
106 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đã nêu: “Việc quá phụ thuộc vào
phí dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo sẽ tạo nguy cơ do tư
lợi làm ảnh hưởng tính độc lập của kiểm toán viên”. Và công ty không nên
nhận hợp đồng kiểm toán nếu mức phí thấp hơn đáng kể so với công ty
kiểm toán tiền nhiệm (hay công ty kiểm toán khác). Tuy nhiên, chuẩn mực
không nêu rõ như thế nào là “quá phụ thuộc” hay “ đáng kể “nên rất khó
áp dụng vào thực tế. Theo chúng tôi, để xem xét thể nào là quá phụ
thuộc, có thể dựa vào hướng dẫn của một số Hiệp hội nghề nghiệp của các
quốc gia trên thế giới. Thông thường, phí của hợp đồng kiểm toán cho một
khách hàng không nên vượt quá 15% (đối với khách hàng là công ty không
niêm yết) hay vượt quá 10% (đối với khách hàng là công ty niêm yết) tổng
doanh thu của công ty kiểm toán (theo hướng dẫn của hội nghề nghiệp
kiểm toán Anh quốc ACCA). Trường hợp phí hợp đồng thu được từ một khách
hàng cao hơn tỷ lệ nêu trên, công ty kiểm toán nên có các chính sách,
thủ tục thích hợp để bảo vệ và giám sát việc thực hiện hợp đồng kiểm
toán, cũng như kiểm soát chất lượng của hợp đồng kiểm toán. Nếu không,
phải từ chối thực hiện hợp đồng kiểm toán cho khách hàng này.
Về
mức phí thấp hơn đáng kể, do rất khó xác định bằng số tuyệt đối hay số
tương đối, vì vậy, các hướng dẫn thường yêu cầu công ty kiểm toán phải
cân nhắc các vấn đề:
- Thời gian thực hiện hợp đồng phải thích hợp, tức không được giảm thời gian thực hiện kiểm toán;
- Trình độ chuyên môn và năng lực kiểm toán viên tham gia vào hợp đồng kiểm toán phải phù hợp;
- Tuân thủ đầy đủ chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm soát chất lượng trong quá trình kiểm toán.
Hai là, xem xét khả năng phát sinh xung đột lợi ích
Xung
đột lợi ích ảnh hưởng đến việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp. Tuy nhiên vấn đề này không được trình bày đầy đủ trong chuẩn mực
hiện hành. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của quốc tế năm 2006 đã đưa
thêm nội dung này. Trong thực tế, đây là một vấn đề cần quan tâm trong
việc chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Vì vậy, cần bổ sung nội dung này vào
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, cần đưa ra các hướng dẫn chi
tiết hơn về các loại xung đột lợi ích.
Phương pháp giải quyết xung đột do đối lập lợi ích:
Khi
nhận đề nghị cung cấp dịch vụ từ khách hàng mới, mà lợi ích của khách
hàng này đối lập với khách hàng hiện tại, công ty kiểm toán không nên
chấp nhận đề nghị này, ngoại trừ trường hợp sau:
Khách hàng mới
và khách hàng hiện tại ký văn bản cam kết chấp nhận cho công ty kiểm
toán cung cấp dịch vụ sau khi họ đã được công ty kiểm toán cung cấp
thông tin nêu trên.
Công ty sử dụng hai nhóm kiểm toán riêng
biệt, có thiết lập thủ tục ngăn ngừa việc tiếp cận thông tin, cũng như
đã hướng dẫn đầy đủ cho nhóm kiểm toán về yêu cầu bảo mật thông tin để
đảm bảo tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Nếu khách hàng từ chối ký văn bản cam kết, công ty kiểm toán không được cung cấp dịch vụ cho một trong hai khách hàng này.
Trường
hợp công ty kiểm toán chỉ phát hiện xung đột lợi ích khi tiến hành kiểm
toán, công ty nên chọn phương pháp xử lý như là: Rút lui khỏi hợp đồng
dịch vụ đang cung cấp cho cả hai bên nếu nhận thấy không có biện pháp
nào có thể áp dụng để giảm thiểu nguy cơ có xung đột do đối lập lợi ích,
hoặc xin sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng và thực hiện các biện
pháp phân chia nhân lực nhằm tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp.
Phương pháp giải quyết xung đột lợi ích do cạnh tranh:
Khi
chấp nhận hợp đồng kiểm toán cho khách hàng mới mà có thể tạo xung đột
lợi ích do cạnh tranh với khách hàng hiện hữu, kiểm toán viên và công ty
kiểm toán cần đặc biệt chú ý đến việc bảo mật thông tin của khách hàng.
Ngoài
ra, công ty kiểm toán cần lưu ý trường hợp xung đột lợi ích do cạnh
tranh có thể trở thành xung đột do đối lập lợi ích. Ví dụ, khách hàng X
và Y là hai đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành kinh doanh. Cả hai công
ty dự định sẽ tham gia đấu thầu vào một hợp đồng cung cấp dịch vụ. Đây
là cuộc đấu thầu ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và công ty nào
thắng thầu sẽ trở thành nhà cung cấp, đồng thời sẽ chi phối thị trường.
Khi đó, công ty kiểm toán phải cân nhắc các nhân tố sau khi đưa ra quyết
định chấp nhận hợp đồng kiểm toán:
- ảnh hưởng của việc chấp nhận hợp đồng của khách hàng thứ hai đối với khách hàng thứ nhất.
- ảnh hưởng của khách hàng thứ nhất đối với khách hàng thứ hai.
Thông thường, công ty vẫn có thể cung cấp dịch vụ khi các điều kiện sau được bảo đảm:
Công
ty sẽ sắp xếp được nhân sự một cách hợp lý để các nhóm tham gia kiểm
toán sẽ tách biệt với nhau nhằm bảo mật tuyệt đối thông tin của khách
hàng.
Thông báo cho khách hàng và cần có sự đồng ý bằng văn bản của khách hàng.
Phương pháp giải quyết xung đột lợi ích kinh doanh:
Xung
đột này nảy sinh khi công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ cho một khách
hàng mà lợi ích của công ty kiểm toán gắn liền với lợi ích của khách
hàng đó.
Cần chú ý trường hợp xung đột lợi ích kinh doanh có thể
đưa đến xung đột đối lập lợi ích hay xung đột lợi ích cạnh tranh. Ví dụ,
công ty kiểm toán có quan hệ kinh doanh với khách hàng C. Công ty nhận
được đề nghị cung cấp dịch vụ cho khách hàng D về việc tư vấn dự án phát
triển cho một sản phẩm /dịch vụ thuộc ngành nghề của C, hay của các đối
thủ cạnh tranh của công ty C. Điều này có thể sẽ dẫn đến việc công ty
cung cấp dịch vụ kiểm toán lại tư vấn cho công ty D theo hướng có lợi
cho công ty C.
Khi phát sinh xung đột lợi ích nêu trên, công ty
kiểm toán cần thông báo cho khách hàng tiềm năng (khách hàng D, ở ví dụ
trên) đầy đủ thông tin về mối quan hệ này. Nếu khách hàng vẫn đồng ý,
công ty có thể chấp nhận hợp đồng kiểm toán và khi đó, cần có các biện
pháp bảo vệ thích hợp để giảm thiểu rủi ro xuống mức có thể chấp nhận
được.
Ba là, Vay và bảo lãnh
Đoạn 147, 148 và 149 chuẩn
mực đạo đức hiện hành quy định: “KiỂm toán viên và công ty kiỂm toán có
thỂ đi vay và cho vay đỐi vỚi khách hàng nẾu khoẢn đi vay và cho vay
không đáng kể đối với cả công ty kiểm toán hoặc kiểm toán viên và khách
hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo”. Thế nhưng chuẩn mực lại không hướng dẫn
như thế nào là “không đáng kể” nên rất khó áp dụng, vì vậy rất cần có
hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề này.
Mức “không đáng kể” có thể
xác định bằng số tuyệt đối hay số tương đối. Đối với kiểm toán viên, nên
sử dụng số tuyệt đối, còn đối với công ty kiểm toán nên sử dụng số
tương đối (chẳng hạn một tỷ lệ % so với doanh thu, tài sản …). Chẳng hạn
theo hướng dẫn một số công ty kiểm toán: kiểm toán viên chỉ có thể thực
hiện kiểm toán cho khách hàng là các tổ chức tín dụng nếu những khoản
thấu chi hay khoản vay từ các công ty (không phải là ngân hàng, tổ chức
tài chính) có số dư không vượt quá 5.000 USD. Như vậy, tuỳ theo tình
hình thực tế, Hội nghề nghiệp nên chọn một số thích hợp và đưa ra hướng
dẫn cụ thể về vấn đề này.
Bốn là, Cần đưa ra yêu cầu kiểm toán viên phải ký văn bản cam kết về tính độc lập
Một
số quốc gia, chẳng hạn như Pháp, yêu cầu trước mỗi cuộc kiểm toán, kiểm
toán viên phải ký văn bản này. Việc yêu cầu kiểm toán viên ký cam kết
nhằm nhắc nhở họ tầm quan trọng của việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và
là cơ sở để sau này có thể xem xét vi phạm của kiểm toán viên.
Giữa
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các quy định trong NĐ105 có một số
điểm khác biệt. Khi phát sinh khác biệt, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán hiện nay chưa có cơ sở để giải quyết.
Thực vậy, giữa chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp và Nghị định 105 còn tồn tại một số nội dung
khác biệt. Chẳng hạn theo đoạn 190 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,
nếu khách hàng kiểm toán không phải là công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán, công ty kiểm toán có thể cung cấp các dịch vụ kế toán và
ghi sổ kế toán theo thủ tục thoả thuận trước với điều kiện các nguy cơ
tự kiểm tra có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được.
Còn
nếu khách hàng kiểm toán là công ty được niêm yết trên thị trường chứng
khoán, thì công ty kiểm toán không được cung cấp dịch vụ kế toán, ghi
sổ kế toán, lập báo cáo tài chính..
Trong khi đó ở Điều 27, Nghị
định 105/2004/NĐ- CP ban hành ngày 30/3/2004 của Chính phủ quy định là:
Doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện kiểm toán trong trường hợp
“đang cung cấp dịch vụ ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính, dịch vụ
kiểm toán nội bộ, định giá tài sản, tư vấn quản lý, tư vấn tài chính
hoặc đã thực hiện các dịch vụ trên trong năm trước cho khách hàng” không
phân biệt là khách hàng có niêm yết hay không.
Như vậy, trong
trường hợp này, nếu tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, công ty vẫn
có thể chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Nhưng nếu chấp nhận hợp đồng kiểm
toán, công ty sẽ vi phạm Nghị định 105/2004/NĐ-CP .
Việc khác
biệt này không chỉ phát sinh tại Việt Nam mà đã từng phát sinh ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tại Hoa Kỳ, một số các quy định trong Luật
Sarbanes -Oxley có sự khác biệt so với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Để
giải quyết khác biệt này, sau khi Luật Sarbanes -Oxley được ban hành,
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Hoa Kỳ đã bổ sung một số quy định cho phù
hợp quy định trong luật Sarbanes -Oxley.
Nói cách khác, giữa
chuẩn mực đạo đức và Nghị định 105/2004/NĐ-CP có những nội dung khác
biệt và về nguyên tắc, chuẩn mực được ban hành bằng Quyết định của Bộ
Tài chính, tức có giá trị pháp lý thấp hơn Nghị định 105, nên khi có
khác biệt phải tuân theo Nghị định 105. Thế nhưng, nếu tuân thủ Nghị
định 105/2004/NĐ-CP, trong một số trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu của
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Phương pháp giải quyết tốt nhất là nên
học tập kinh nghiệm của Hoa Kỳ, tức bổ sung nội dung sau đây vào chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp của Việt Nam quy định như sau:
Khi áp
dụng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có thể nảy sinh một số khác
biệt. Lúc này, nếu quy định của chuẩn mực đạo đức không chặt chẽ bằng
quy định pháp lý, cần tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. Ngược
lại, khi chuẩn mực đạo đức chặt chẽ hơn các quy định pháp lý, thì phải
tuân thủ các quy định của chuẩn mực.
Tóm lại, việc hoàn thiện các
quy định đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên ở Việt Nam nhằm giúp
các công ty kiểm toán và người hành nghề dễ dàng áp dụng vào thực tế.
Đây là một biện pháp góp phần phát triển các dịch vụ kiểm toán và những
dịch vụ đảm bảo khác trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế./. Tapchiketoan.com